Với nhiều bệnh lý nội khoa, đôi khi chỉ cần khám bệnh,
các Bác sĩ đã có thể biết tình trạng bệnh tật của bệnh nhân; nhưng đối với bệnh
gan, xét nghiệm lại đóng một vai trò gần như quyết định trong việc chẩn đoán và
điều trị.
Nói một cách khác là nếu thiếu phòng xét nghiệm chính
xác, các bác sĩ chuyên khoa gan gần như không “hành nghề” được. Vậy, xét nghiệm
về gan gồm những xét nghiệm gì và chúng có giá trị ra sao? Mục đích của chương
này là giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của những xét nghiệm mà các bác sĩ thường
yêu cầu khi khám những bệnh nhân nghi ngờ là có bệnh về gan.
Xét nghiệm chức năng gan
Danh từ “xét nghiệm chức năng gan” dùng để chỉ nhiều
loại xét nghiệm máu khác nhau giúp đánh giá một cách tổng quát tình trạng hoạt
động của gan và hệ thống đường mật.
1. Xét nghiệm men gan gồm hai loại men chính có tên
là ALT (alanin aminotransferase) hay còn gọi là SGPT và AST (aspartate
aminotransferase) hay còn gọi là SGOT ALT và AST là những men nằm bên trong tế
bào gan, bình thường chúng chỉ có trong máu ở nồng độ vào khoảng <40 U/L.
Khi tế bào gan bị hư hoại.
Các men
này sẽ thoát ra ngoài tế bào gan và đi vào trong máu. Do đó, sự gia tăng các
men ALT và AST trong máu được xem như là những chỉ dẫn cho tình trạng tế bào
gan đang bị phá hủy. Men ALT được nghĩ là đặc hiệu hơn cho bệnh viêm gan bởi vì
men AST còn có thể tăng trong những bệnh lý của các cơ quan khác như bệnh tim
và bệnh cơ vân... Khi tế bào gan bị hư hoại cấp tính ví dụ như viêm gan siêu vi
cấp, men ALT và AST có thể tăng cao đến hàng trăm hay hàng ngàn đơn vị.
Còn
trong các bệnh lý gan mãn tính, mức độ tăng men gan thường nhẹ hơn (dưới 2-3 lần trị số bình thường)
hoặc chỉ tăng ở mức độ trung bình (100-300 U/L). Trong giai đoạn đầu của bệnh
viêm gan, tế bào gan bị hư hoại càng nhiều thì lượng men này càng cao. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng, khi gan hoàn toàn bị xơ hoặc bị hư hoại gần hết thì
không còn bao nhiêu chất men để tiết vào trong máu nữa; do đó khi xét nghiệm có
thể thấy nồng độ men hoàn toàn bình thường, có thể làm chúng tạ lầm tưởng rằng
gan đã ổn định. Bác sĩ cũng thường cho làm xét nghiệm ALT và AST để theo dõi những
bệnh viêm gan mãn tính và để theo dõi việc đáp ứng với điều trị.
Ngoài các men ALT và AST, các bác sĩ còn cho bệnh nhân
thử các loại men gan khác, ví dụ như men γ-Glutamyl trans- peptidase (viết tắt là
GGT) và men alkaline phosphatase (viết tắt là AP hay PA). Các men này phản ánh
tình trạng bất thường về chức năng bài tiết của gan vào đường mật. Do đó, chúng
cũng tăng trong nhiều bệnh lý gan mật khác nhau chủ yếu là các bệnh có rối loạn
về sự bài tiết mật ví dụ như bị sỏi đường mật hoặc u bướu gây tắc nghẽn đường mật,
bệnh gan do nghiện rượu, viêm gan do thuốc, các bệnh có tắc nghẽn những ống mật
nhỏ trong gan. Ngoài bệnh lý gan và đường mật, men alkaline phosphatase còn tăng
trong các bệnh về xương, nhau thai và ruột. Khác với men alkaline phosphatase,
men GGT không tăng trong những bệnh về xương, nhau thai hoặc ruột cho nên người
ta thường làm thêm GGT để biết chắc chắn rằng sự tăng alkaline phosphatase thật sự là do bệnh
lý gan hoặc đường mật.
2. Bilirubin hay còn được gọi là sắc tố mật.
Bilirubin được tạo ra từ chất hemoglobin có trong hồng cầu. Khi hồng cầu trong
máu già đi,
chúng sẽ bị vỡ và phóng thích ra hemoglobin. Hemoglobin dược biến đổi qua nhiều
giai đoạn để cuối cùng tạo thành bilirubin 'lán tiếp. Bilirubin gián tiếp được
các albumin trong máu vân chuyển đến gan. Tại gan, bilirubin gián tiếp được gắn
kết với các acid glucuronic để tạo thành bilirubin trực tiếp rồi sau đó được bài tiết qua
đường mật. Ở
người bình thường khỏe mạnh, bilirubin chỉ có trong máu với nồng độ thấp (ít
hơn 1,2mg/dL).
Khi bilirubin tăng vượt quá giới hạn bình thường trong máu sẽ gây ra triệu chứng
vàng da, vàng mắt. Bilirubin trực tiếp tăng trong nhiều loại bệnh gan và bệnh
đường mật khác nhau. Còn bilirubin gián tiếp sẽ tăng trong các bệnh lý huyết
tán (tức là các bệnh làm cho hồng cầu bị vỡ sớm và nhiều hơn bình thường). Như
vậy, xét nghiệm bilirubin tương đối không đặc hiệu. Tuy nhiên, nó vẫn được xem
là một xét nghiệm chức năng gan thực sự bởi vì nó phản ảnh khả năng bắt giữ, chế
biến và bài tiết chất bilirubin vào trong mật.
3. Xét nghiệm tìm chất albumin: Đây là một loại
protein chính được tế bào gan tổng hợp. Khi bệnh nhân bị bệnh gan mãn tính, gan
sẽ giảm chế tạo ra chất này. Vì vậy trong những bệnh gan mãn tính như xơ gan, nồng
độ albumin trong máu thường giảm (thấp dưới 3,5mg/dL). Còn trong các bệnh lý
gan cấp tính thường không ảnh hưởng đến nồng độ albumin trong máu.
4. Xét nghiệm đo thời gian Prothrombin hoặc tính tỷ lệ
Prothrombin. Đây là xét nghiệm dùng để đánh giá chức năng tổng hợp các yếu tố
đông máu của gan. Khi gan bị hư hoại, một số các yếu tố đông máu sẽ không tạo
được. Do vậy, máu sẽ chậm đông lại và khi đo thời gian prothrombin sẽ thấy kéo
dài. Thời gian prothrombin càng dài thì mức độ suy giảm của chức năng gan càng
nặng. Thông thường, khi hàm lượng prothrombin chỉ còn dưới 50% thì không thể mổ
xẻ vì rất dễ chảy máu và tình trạng gan cũng đã bị suy giảm khá nặng.
5. Xét nghiệm công thức máu: có thể cho thấy một số thay
đổi khi bệnh nhân bị xơ gan. Khi gan bị xơ, mô xơ ở gan sẽ gây cản trở dòng máu
qua gan, cho nên máu sẽ chảy ngược về lá tách. Do vậy, lá tách sẽ phình to ra. Tách
sẽ giữ lại và phá hủy các tế bào máu, làm cho số lượng của hồng cầu, bạch cầu
và tiểu cầu trong máu bị giảm đi. Người ta gọi đó là hiện tượng cường tách. Giảm
tiểu cầu là một dấu hiệu khá sớm và thường gặp trong xơ gan.